Cổng thông tin điện tử tỉnh Lạng Sơn

Sở Khoa học và Công nghệ

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ THU HÁI TRÁM ĐEN TẠI HỮU LŨNG (QUY TRÌNH ĐỀ XUẤT)

I. KỸ THUẬT TRỒNG 

I. KỸ THUẬT TRỒNG 

         1.1. Chọn đất trồng      

Trám đen có thể trồng được ở những nơi có độ cao trung bình dưới 800m so với mực nước biển, thích hợp nhất là dưới 400 m. Có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng tầng dày (độ sâu tầng đất > 80 cm), giàu mùn, ẩm thường xuyên, thoát nước. Thích hợp nhất là các loại đất sét hoặc sét pha, đất dốc tụ hoặc đất bồi tụ, đất phù sa ven sông… không nên trồng trên đỉnh đồi, độ dốc không quá 30 độ. Đào hố trồng rộng 0,8 - 1m, sâu 0,8 - 1m. Bón lót mỗi hố 30 - 50kg phân chuồng trộn với 0,5 - 1kg supe lân, ủ kỹ trong 60 – 70 ngày. Khi trồng trộn đều phân với đất, san phẳng, trồng cây trám ở chính giữa hố.

1.2. Thời vụ trồng

Thời vụ trồng trám đen ở các tỉnh vùng núi phía Bắc thích hợp nhất là vụ xuân – hè (từ tháng 2 – 4) hoặc vụ hè – thu (từ tháng 6 – 8), các tỉnh miền Trung thường trồng vào vụ thu thu – đông ( từ tháng 8 – 12), các tỉnh Tây Nguyên và Nam bộ trồng vào vụ hè – thu (từ tháng 6 – 9), khi đất đủ ẩm và có mưa thường xuyên, chọn những ngày râm mát hoặc mưa nhỏ để trồng.

1.3. Phương thức và mật độ trồng

- Trồng tập trung thuần loài:

Đây là phương thức trồng đã áp dụng ở một số địa phương như Hòa Bình, Bắc Giang và Thanh Hóa, có thể trồng thuần loài trên đất trống có cây phù trợ hoặc không có cây phù trợ. Mật độ trồng là 1.600 cây/ha (3 x 2m). Cây giống áp dụng cho phương thức này có thể là cây gieo từ hạt hoặc cây ghép.

- Trồng rừng hỗn loài:

Đây là phương thức trồng phổ biến ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc, có thể trồng trám đen hỗn loài với các loài cây lá rộng bản địa khác như lim xanh, trám trắng, chẹo, gội nếp, gội trắng… hoặc hỗn loài với các loài cây khác thường lá 1.600 cây/ha (3 x 2 m), tỷ lệ giữa các loài khác với trám đen là như nhau. Ngoài ra, có thể trồng trám đen hỗn loài trong rừng thứ sinh nghèo kiệt, hoặc trảng cây bụi dày sau nương rẫy; mật độ trồng thường là 500 cây/ha (5 x 4 m). Cây giống áp dụng cho phương thức này thường là cây con gieo từ hạt.

- Trồng cây phân tán hay nông lâm kết hợp:

Là phương thức trồng phổ biến ở các tỉnh Trung du vùng núi phía Bắc và Bắc Trung bộ, nhất là trong các chương trình khuyến lâm của Bộ Nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2001 - 2012. Mỗi gia đình có thể trồng một vài chục cây, nhiều nhất không quá 100 cây trên nương rẫy theo phương thức nông lâm kết hợp, hay trồng xen với cây ăn quả trong các vườn hộ hay rừng. Cây con sử dụng để trồng phân tán trước đây đều trồng bằng cây con gieo từ hạt, nhưng trong khoảng những năm gần đây chủ yếu trồng bằng cây ghép. Mật độ trồng cây ghép thường là 500 cây/ha (5 x 4 m).

         1.4. Xử lý thực bì 

Đối với phương thức trồng phân tán trong các vườn hộ, vườn rừng hay xung quanh nhà thường thực bì rất ít hoặc không có, nên chỉ cần xử lý cục bộ xung quanh vị trí cuốc hố. Đối với các trạng thái rừng thứ sinh nghèo kiệt, hoặc trảng cây bụi thực bì khá dày nên cần xử lý theo băng (rạch) chạy song song với đường đồng mức, băng (rạch), chặt rộng 2m, băng chừa rộng 3m, chặt toàn bộ cây bụi thảm tươi trên băng (rạch), chỉ chừa lại những cây gỗ từ 6cm trở lên và những cây tái sinh có giá trị kể cả cây gỗ và cây lâm sản ngoài gỗ. Công việc này phải thực hiện trước khi trồng rừng ít nhất 1 tháng.

1.5. Làm đất

Làm đất theo phương thức cục bộ, dùng dụng cụ chuyên dùng đào hố thủ công, kích thước hố là: 40 x 40 x 40 cm hoặc 60 x 60 x 50 cm tùy theo đặc điểm ở từng nơi trồng rừng, nơi đất tốt, bón lót ít phân hữu cơ cuốc hố kích thước nhỏ; nơi đất xấu, nhiều sỏi đá cần bón nhiều phân hữu cơ thì cuốc hố lớn.   Bón lót, nơi đất xấu bón từ 5 – 10 kg phân chuồng hoai (gồm các loại phân: gà, lợn, trâu, bò) kết hợp với 0,3 kg phân NPK (5:10:3)/hố. Nơi đất tốt cũng nên bón từ 2 – 3 kg phân chuồng hoai kết hợp với 0,3 kg NPK (5:10:3)/hố. Lấp đất xuống hố đến đâu đảo phân đều đến đó và lấp đầy miệng hố. Việc cuốc hố phải hoàn thành trước khi trồng ít nhất 1 tuần.

1.6. Kỹ thuật trồng

Sử dụng cuốc hoặc thuổng đào một lỗ nhỏ ở giữa hố đã lấp đất, kích thước hố phải lớn hơn bầu đất của cây giống, xé vỏ bầu, đặt bầu cây ngay ngắn giữa hố và lấp đất, dùng tay ấn nhẹ xung quanh bầu sao cho không làm vỡ bầu đất, vun đất hình mai rùa xung quanh gốc và cao hơn mặt đất xung quanh từ 4 – 5 cm để tránh đọng nước mưa. Sau khi trồng 1 tháng cần kiểm tra để trồng dặm những cây chết hoặc trồng thay thế những cây có nguy cơ bị chết hoặc sinh trưởng kém bằng những cây con đủ tiêu chuẩn dự phòng ở vườn ươm.

II. KỸ THUẬT CHĂM SÓC

2.1. Tưới nước

Tưới đủ ẩm 70 - 80% sau trồng để cây sinh trưởng thuận lợi. Tạo tán cho cây con trong 3 năm đầu: Khi cây cao 1 - 1,2m tiến hành bấm ngọn. Mỗi cây giữ 4 - 5 cành cấp 1 và 8 - 10 cành cấp 2 toả đều xung quanh.

2.2. Bón phân

- Bón cho cây con (1 - 3 năm): Mỗi cây 20 - 30 kg phân chuồng, bón 1lần/năm. Từ 0,5 - 1kg urê 0,2 - 0,5 kg kali clorua, 1 - 2 kg supe lân, bón làm 4 - 5 đợt/năm.

Năm đầu bón 1 - 2 lần, phát thực bì, dẫy cỏ quanh gốc, xới vun gốc với đường kính 0,7 - 0,8m.

Năm thứ hai bón 2 lần vào vụ xuân và cuối thu, cách chăm sóc như năm đầu và có bón thêm 0,05-0,1kg NPK (5:10:3) cho mỗi gốc vào lần 1.

Năm thứ ba chăm sóc 2 lần giống năm thứ 2 nhưng mở rộng đường kính xới dẫy quanh gốc rộng 1 - 1,2m.

- Bón cho cây kinh doanh: Tỉa thưa cây xấu, cong queo, sâu bệnh khi cây 6 - 7 tuổi. Bón làm 3 đợt trong năm: Bón phục hồi sau khi thu quả, kết hợp với tỉa cành la, cành vóng, cành tược, cành sâu bệnh, phân chuồng 30 - 50kg, bón đạm, lân, kali theo tỷ lệ 2 đạm: 1kali: 4 lân. Bón đón hoa vào tháng 1 tỷ lệ 1 đạm: 1 ka li. Bón thúc quả vào tháng 4 tỷ lệ 1 đạm: 2 kali. Vị trí bón dưới tán cây, cách gốc 0,8 - 1m để nuôi dưỡng cây.

Phun chế phẩm A-H 502 + Chất bám dính cho trám 2-3 lần. Từ 1 - 2 lần khi có nụ đến trước nở hoa rộ, 1 lần khi đậu quả non đường kính quả bằng đầu đũa để tăng đậu quả, chống rụng quả sinh lý, tăng 15 - 20% năng suất quả.

2.3. Cắt tỉa, tạo tán

* Cắt tỉa: Cắt tỉa vào tháng 2 trước khi cây ra hoa, cắt tỉa sau khi thu hoạch quả. Cắt tỉa những cành cành sâu bệnh, cành khô héo, cành tăm để cây kịp thời ra lộc chuẩn bị ra hoa vụ sau.

* Tạo tán: Phải tạo tán trám theo hướng lùn hóa, cành chính ngắn để cho năng suất cao. Nếu mắt ghép vào gốc cây gốc ghép còn nhỏ thì ghép mắt vào khoảng 20 cm cách mặt đất, đến mặt đất, đến khi cây con cao 1m thì bấm ngọn để phân cành, sau đó lại bấm ngọn, để tạo 1 - 2 cành nhánh, dài khoảng 50 - 80cm. Nếu ghép lên cây con lớn hơn thì ghép vào khoảng 150cm cách mặt đất, khi có 1 - 2 cành thì bấm ngọn, để cành dài 80cm, tạo thế cây lùn, cành ngắn.

2.4. Chăm sóc khác

Chăm sóc 04 năm đầu kể từ khi trồng, mỗi năm có thể chăm sóc từ 2 - 3 lần tùy theo mức độ thực bì ở từng địa điểm cụ thể. Nội dung chăm sóc chủ yếu là cắt bỏ dây leo quấn lên thân cây trám, dãy cỏ và phát dọn cây bụi thảm tươi xung quanh gốc rộng từ 80 – 100 cm, cuốc xới và vun gốc cây rộng từ 60 – 80 cm, phát tỉa cành và điều chỉnh độ tàn che của tán rừng, hoặc tán cây khác sao cho phù hợp với nhu cầu ánh sáng của cây trám ở từng giai đoạn. Ngoài ra có thể bấm ngọn, tỉa cành nhánh để tạo tán cho từng cá thể, sao cho chúng sinh trưởng và phát triển cân đối, nhiều cành nhánh, tán rộng nhằm nâng cao năng suất quả và hạn chế phát triển chiều cao để dễ thu hoạch, nhất là với những cây ghép.

2.5. Phòng trừ sâu, bệnh hại

Trám đen thường bị sâu vòi voi xanh phá hại (cả giai đoạn sâu non và sâu trưởng thành). Sâu trưởng thành thường dùng vòi đục xung quanh ngọn cây thành các lỗ để hút chất dinh dưỡng và sau đó đẻ trứng vào lỗ đục, trứng nở thánh sâu non, sâu non chui vào thân ngọn trám để phá hại. Khi sâu non chui ra ngoài cũng là lúc ngọn Trám bị héo, cây Trám bị tổn thương. Sâu trưởng thành xuất hiện tập trung vào khoảng tháng 4 - 9, thời gian này cần tổ chức các đợt điều tra để phát hiện sâu hại kịp thời đề xuất biện pháp, tiến hành thống kê số lượng cây hại và mức độ bị hại trên tuyến từ đó suy ra cho toàn rừng.

 * Biện pháp phòng trừ sâu hại: 

Vòi voi thuộc họ Curculionidate thuộc bộ Coleoptera, khi phát hiện có sâu hại cần áp dụng các biện pháp phòng trừ sau đây:

- Ngắt những lá Trám, búp Trám đã bị sâu trưởng thành phá hại đem đốt để diệt hết trứng sâu non.

- Dựa vào tập tính sinh học và phòng trừ như dùng bẫy đèn lúc 6 - 7 giờ tối để bẫy sâu trưởng thành, dùng vợt và rỏ tre đi rung từng cây hứng sâu trưởng thành và bắt giết.

- Dùng Wofatox nồng độ 0,2 - 0,5% phun đều vào ngọn và lá những cây có sâu hại.

- Bảo vệ các loài thiên địch như kiến lửa, ong,…

III. KỸ THUẬT THU HÁI, SƠ CHẾ, BẢO QUẢN QUẢ TRÁM

3.1. Kỹ thuật thu hái

Trám là cây gỗ lớn, chiều cao cây đạt tới 25 - 30m, đường kính 80 - 90 cm; thân thẳng, phân cành cao, tán cây rộng. Vì vậy, việc thu hoạch quả trám gặp nhiều khó khăn; hơn nữa do quả trám có kích thước nhỏ nằm ẩn trong các bụi lá, đứng ở dưới đất không thể quan sát thấy hết dẫn đến thu hoạch không được triệt để. Ở nước ta hiện nay bà con nông dân đang tiến hành thu hoạch theo hai cách:

* Cách thu hái thủ công:

- Dùng sào tre để đập, tuy có giảm công thu hái nhưng làm cho quả sau thu hoạch hay bị dập nát, giảm rất nhiều giá trị cảm quan cũng như giá trị dinh dưỡng, hơn nữa việc dùng sào đập trong lúc thu hái ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cây sau này cũng như năng suất quả của các năm sau.

- Dùng thang, sào, móc đeo giỏ để thu hái; phương pháp này tuy có giảm được mức độ hư hỏng quả và cây nhưng rất tốn công, từ đó dẫn đến giá thành quả cao.

          - Với phương pháp thủ công như cắt cành, dùng gậy đập; không những gặp khó khăn trong quá trình thu hái do cây trám cao to, cành cây giòn dễ gãy mà phương pháp này còn ảnh hưởng đến chất lượng quả sau thu hái, quả bị tổn thương do va đập, tuổi thọ của cây và khả năng ra hoa, năng suất quả trám của các vụ tiếp theo.

* Cách thu hái bằng sử dụng hoá chất:

  - Sử dụng muối: đục lỗ nhỏ rồi cho muối vào thân cây trám để quả rụng đồng loạt.

- Sử dựng Ethryl: Khi cây vào giai đoạn chín để tiết kiệm công lao động, chi phí thu hái, ảnh hưởng tới khả năng ra hoa ở vụ sau thì sử dụng Ethryl 40% được pha loãng ra 300 lần (chế phẩm thương phẩm bán ngoài thị trường là thuốc giấm các loại quả thông thương như chuối, hồng....) phun lên tán lá cây. Phương pháp thu hái này dựa trên nguyên tắc của sự hấp thu Ethryl của lá qua khí khổng và giải phóng ra Ethylene, một chất điều hoà sinh trưởng nội sinh có tác dụng đẩy nhanh quá trình lão hoá và kích thích hình thành tầng rời gây rụng lá, rụng quả. Sau bốn ngày phun tỷ lệ rụng quả đạt 99 - 100%. Sử dụng Ethylene là phương pháp mới, cho hiệu quả thu hái tốt hơn và có lợi về nhiều mặt do ngoài tác dụng thu hoạch (gây rụng quả) nó còn có tác dụng phụ là kích thích cây sớm ra quả và tăng mạnh số lượng chùm hoa năm sau. Tuy nhiên, việc sử dụng hóa chất ở nồng độ thích hợp thì đòi hỏi người sử dụng phải tuân thủ đúng kỹ thuật pha chế,  đảm bảo đúng liều lượng hoá chất

3.2. Thời điểm thu hái

Trám đen sau khi trồng 5 - 6 năm bắt đầu ra hoa, cây ra hoa vào tháng 4 - 5, thu hái quả tháng 9 - 11. Tuy nhiên theo yêu cầu kỹ thuật đối với với từng loại sản phẩm chế biến mà người ta chọn thời điểm thu hái cho thích hợp. Thu hoạch trám với độ chín như thế nào tùy thuộc vào yêu cầu sản phẩm. Các loại thu hoạch sớm để chế biến, còn để ăn tươi thì phải thu hoạch khi quả chín hẳn. Trong thời vụ thu hoạch của trám người ta chia ra làm ba thời điểm thu hái chính:

 - Thu hái sớm: thời điểm thu hái được diễn ra vào tháng 7 - 9 hàng năm. Lúc này vỏ quả có màu xanh, hạt vẫn có màu trắng hơi nâu chưa chuyển sang mầu nâu. Trám thu hoạch vào thời điểm này thích hợp cho quá trình chế biến mứt. Với thời điểm thu hoạch này sẽ có lợi cho dưỡng cây và đảm bảo năng suất cho mùa quả năm sau.

 - Thu hái giữa mùa: Thời điểm thu hái vào tháng 9 - 10 hàng năm. Thời điểm này quả đã phát triển tương đối hoàn chỉnh về kích thước cũng như thành phần hoá học. Quả được thu hái vào thời điểm này thích hợp cho mục đích bảo quản tươi.

 - Thu hái muộn: Thời điểm thu hái vào tháng 10 - 11 hàng năm. Lúc này quả đã già, thành phần các chất trong quả đã đạt tới mức cao nhất, nên hương vị và màu sắc của trám rất đặc trưng. Vì vậy độ già này rất thích hợp cho mục đích chế biến kem, mứt nhuyễn, rượu và các loại nước giải khát từ trám.

          3.3. Sơ chế, bảo quản và chế biến quả Trám

 - Về sơ chế và bảo quản quả trám: Hiện tại, ở nước ta công nghệ sơ chế và  bảo quản quả trám chưa được nghiên cứu; việc sơ chế và bảo quản quả trám sau thu hoạch chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống là xử lý nước ấm, loại bỏ vỏ bằng cách chà xát thủ công và bảo quản bằng cách ngâm ủ muối, ngâm mắm hoặc sấy khô.

- Về chế biến quả trám: Trong một số năm gần đây do thiết bị và công nghệ chế biến thực phẩm phát triển mạnh đã giúp cho ngành chế biến trong nước được nâng cao sản phẩm nói chung và các sản phẩm về trám nói riêng. Công ty TNHH Bắc Ninh đang sản xuất với khối lượng lớn sản phẩm về quả trám; mặt hàng chính của công ty là trám dầm nước mắm đóng trong lọ thủy tinh và được suất khẩu sang các nước châu Âu. Một số xưởng chế biến của tỉnh Lạng Sơn mỗi năm cũng tiêu thụ 30 - 40 tấn quả vào việc chế biến mứt trám, tuy nhiên chất lượng sản phẩm, đặc biệt là các chỉ tiêu an toàn thực phẩm chưa cao nên các sản phẩm này chỉ được xuất sang thị trường Trung Quốc.

 

Nguồn kết quả các đề tài dự án nghiên cứu KHCN

Post type
Featured

Nguồn:sokhcn.langson.gov.vn Sao chép liên kết